Lúc tôi bán tất cả các cổ phiếu của mình ra là thời điểm Vn index vào khoảng 470, đây là thời điểm cắt lỗ thành công nhất của tôi so với thời điểm cắt lỗ ở cuối năm 2007. Hai ngày sau đó cơn khủng hoảng tài chính bắt đầu xảy ra. Ban đầu là sự sụp đỗ của hai đai gia Fannie Mae và Freddie Ma. Những thông tin mới nhất về Merrill Lynch đã bị Bank of America nuốt chửng, và sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ, Lehman Brothers, đã khiến những nhà kinh tế bàn luận về sự khởi đầu của một cuộc khủng hoảng mới có thể so sánh với thời kỳ Đại suy thoái trước đây.
Một số nhà xã hội học và sử gia tin rằng cuộc khủng hoảng này tiên đoán sự sụp đổ của “đế chế Hoa Kỳ” cũng như hệ thống thế giới hiện tại.
Lehman Brothers đã mất hơn 90% giá trị thị trường kể từ đầu năm nay. Các nhà đầu tư đã từng hy vọng đại gia tài chính này có thể sẽ được “giải cứu”. Người ta đã nghĩ đến “hai vị cứu tinh” mang tên Barclays và Bank of America, với sự bảo đảm của chính phủ. Nhưng rút cuộc, cả hai đại gia này đã lắc đầu. Họ nói rằng chính phủ Mỹ không sẵn sàng bảo lãnh cho bất kỳ khoản nợ xấu nào của Lehman, đặc biệt là khoản 128 tỷ USD cam kết dài hạn, tiếp đến là hàng loạt các ngân hàng lần lượt ra đi, kéo theo các ngân hàng của Anh, Nhật, Úc, Đức cũng lâm vào tình trạng sát nhập, bán mình, cuộc khủng hoảng cũng lan rộng đến các nước Châu Á…
Người ta thường chỉ biết cuộc khủng hoảng xảy ra từ Mỹ và lan rộng sang nhiều nước khác trên thế giới, song ít ai biết rằng vì sao các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính của các nước khác của Châu Âu lại ảnh hưởng lớn đến như vậy.
Nguyên nhân bắt đầu từ các đế chế tài chính hùng mạnh của Mỹ, họ có rất nhiều tiền và các nhà tài chính này đã nghĩ ra các gói sản phẩm cho vay để tiêu dùng bất động sản và mua nhà. Như vậy thị trường bất động sản trở thành cơn sốt do có sự kích thích cho vay dòng tiền từ ngân hàng. Thị trường bất động sản ở Mỹ đã rơi vào tình trạng bong bóng, các hợp đồng cho vay đến từng người dân của các ngân hàng chuyên cho vay bất động sản này trở thành trái phiếu và cổ phiếu của các ngân hàng lớn tại Mỹ, những ngân hàng này đặc biệt rất có uy tín trên thế giới trong suốt những thập niên qua. Những trái phiếu và cổ phiếu này được bán cho các tổ chức tài chính và ngân hàng khác trên thế giới Anh, Úc,Đức, Nhật… Vì vậy khi các ngân hàng tại Mỹ sụp đỗ thì sẽ kéo theo các ngân hàng của các nước khác
Trước đây những cổ phiếu tôi nắm giữ bị ảnh hưởng từ nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân đáng sợ nhất là kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm phát, các ngân hàng TMCP của Việt Nam buộc phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ của ngân hàng trung ương và là chỉ đạo của chính phủ, mục tiêu là kiềm chế lạm phát. Tại thời điểm này(quý 1/2008) các chỉ số trên hai sàn giảm thê thảm, thanh khoản của thị trường rất kém, bên mua không có dư mua, rất ít người mua, ngược lại rất nhiều người bán giá sàn, các tổ chức tài chính của Việt Nam thì giải chấp cổ phiếu cầm cố. Đến cuối năm 2008 các danh mục đầu tư của tôi cũng là nạn nhân của sự khủng hoảng tài chính thế giới. Tuy nhiên tôi ít lỗ hơn so với nhà đầu tư khác, khoảng cắt lỗ của tôi được lợi khoảng 37% tính tới thời điểm hiện nay(tháng 1/2009), Index xoay quanh mức 300 đến 320, rất may tôi đã bán tất cả các cổ phiếu ra trước thông tin khủng hoảng tài chính hai ngày.
Thời điểm này là thời điểm gì? Cơ hội, rủi ro, đầu tư lướt sóng, đầu tư dài hạn, bán ra hay mua vào lúc nào đây?, nghe ngóng, chờ đợi… Là những suy nghĩ nhà đầu tư đang đặt ra. Sở dĩ nhà đầu tư hiện giờ luôn hoang mang là vì thị trường diễn biến rất khó lường. Có thời điểm phần lớn nhà đầu tư từ Nam ra Bắc đều hướng tới thị trường chứng khoán Mỹ, chỉ số Dow, S&P 500, Nasdaq Châu âu FTSE, DAX, AEX, Nhật Nikkei. Nếu đêm nay nhìn chỉ số Dow, S&P 500 lên thì ai cũng dự đoán được là VN ngày mai sẽ tăng, cứ như thế chỉ số chứng khoán của VN cứ theo xu hướng chung của thế giới. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đã ảnh tới từng ngõ ngách, người hàng xóm của tôi là một công nhân của công ty cao su Eh Leo trên Buôn Ma Thuộc, họ phải ra về vì thất nghiệp do giá cao su đã giảm đến hơn 60%, người công nhân công ty Cao Su Đà Nẵng(DRC) cũng nghỉ, vì không có việc làm, cty giảm biên chế, tết này cô ấy sẽ nói không mua sằm gì hết…
Dự định của tôi, tôi sẽ mua vào khi Vn index về dưới 300 và mua mạnh vào khi chỉ số Index về 250. Thời gian đầu tư là 1 đến 2 năm sau
Cách tính EPS
- Cách tính EPS(EPS: Là chỉ số đánh giá bản thân công ty tạo khả năng sinh lợi từ đồng vốn của cổ đông đóng góp. Chỉ số EPS càng cao thì công ty tạo ra lợi nhuận cổ đông càng lớn và ngược lại. Rộng ra một chút nếu bạn gửi tiết kiệm được 9%-10% năm, EPS của công ty X nào đó cũng bằng 9%-10% thì EPS = lãi suất ngân hàng. Có nghĩa rằng bạn đầu tư vào công ty X này lợi nhuận thu về bằng với lợi nhuận bằng với tiền gửi tiết kiệm của bạn. )
vidu: DHG : lợi nhuận 2007 : 127,093,200,178 ;
Vốn chủ sở hữu (theo Bảng CĐKT) 200.000.000.000 TỨC 20.000.000 CP; vậy EPS = 127.093.200.178*10.000/200.000.000.000 = 6.355
- Cách tính PE(* P/E là chỉ số phản ánh mối quan hệ giữa thị giá cổ phiếu hiện hành với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty đó.P/E càng cao thì giá cổ phiếu càng cao)
vídụ:P/E là một tỷ lệ phần trăm giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập trên một cổ phhiếu. Nếu giá một cổ phiếu cuả IBM là 60 đôla và thu nhập của mỗi cổ phiếu là 3 đôla thì tỷ lệ P/E sẽ là 20 (60/3). điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẵn sàng trả 20 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận của công ty. Nếu P/E giảm xuống còn18 có nghĩa là nhà đầu tư chỉ trả 18 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận.
vidu: DHG : lợi nhuận 2007 : 127,093,200,178 ;
Vốn chủ sở hữu (theo Bảng CĐKT) 200.000.000.000 TỨC 20.000.000 CP; vậy EPS = 127.093.200.178*10.000/200.000.000.000 = 6.355
- Cách tính PE(* P/E là chỉ số phản ánh mối quan hệ giữa thị giá cổ phiếu hiện hành với lợi nhuận sau thuế trong một năm của công ty đó.P/E càng cao thì giá cổ phiếu càng cao)
vídụ:P/E là một tỷ lệ phần trăm giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập trên một cổ phhiếu. Nếu giá một cổ phiếu cuả IBM là 60 đôla và thu nhập của mỗi cổ phiếu là 3 đôla thì tỷ lệ P/E sẽ là 20 (60/3). điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẵn sàng trả 20 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận của công ty. Nếu P/E giảm xuống còn18 có nghĩa là nhà đầu tư chỉ trả 18 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận.
Ke Toan, nghiep vu kinh doanh luu ky chung khoan
I Hoạt động kinh doanh lưu ký chứng khoán
1.1 Nghiệp vụ, quy trình
Mô tả
Các doanh nghiệp cổ phần nhờ Cty CK quản lý hộ cổ phiếu, cổ đông, sổ đăng ký chứng khoán, chi trả hộ cổ tức.
Yêu cầu
- Việc quản lý cổ phiếu, cổ đông… đã có một chương trình phần mềm riêng. Kế toán chỉ theo dõi doanh thu lưu ký chứng khoán, tiền nhận và đã chi trả hộ cổ tức.
- Các khoản phí thu được:
o Phí thiết lập hồ sơ ban đầu (1)
o Phí chuyển nhượng cổ phần (2): Là phí Cty CK thu từ các cổ đông khi làm thủ tục cho các giao dịch chuyển nhượng cổ phiếu đang lưu ký tại CKĐA.
o Phí quản lý sổ cổ đông (3)
o Lãi tiền gửi liên quan chi trả cổ tức (4): Lãi của tiền cổ tức mà CKĐA nhận để trả hộ nhưng cổ đông chưa nhận hết đang còn nằm trong tài khoản Cty CK
Mỗi cuối tháng sẽ xuất hóa đơn cho (2) và (3). Riêng (1) sẽ xuất một lần khi ký HĐ và không xuất HĐ cho (4)
1.2 Quy trình
- Hằng ngày vẫn lập phiếu thu và hạch toán vào doanh thu. Đến cuối tháng phần mềm sẽ cho ra một bảng kê. Dựa vào bảng kê sẽ xuất hóa đơn cho từng tổ chức và xuất 01 hóa đơn cho các cá nhân.
- Phần mềm sẽ cho phép theo dõi những khoản đã/chưa xuất hóa đơn.
1.3 Chứng từ
- Hợp đồng lưu ký
- Chứng từ thu tiền
- Chứng từ thoả thuận thu chi hộ
1.4 Hạch toán
Nợ TK 111, 112
Có TK 5116(1-6): Phí thu từ dịch vụ lưu ký chứng khoán
Chi trả hộ cổ tức
Nợ TK 111, 112: Cổ tức nhận thanh toán hộ
Có TK 332
Nợ TK 332
Có TK 111, 112: Cổ tức thanh toán
1.1 Nghiệp vụ, quy trình
Mô tả
Các doanh nghiệp cổ phần nhờ Cty CK quản lý hộ cổ phiếu, cổ đông, sổ đăng ký chứng khoán, chi trả hộ cổ tức.
Yêu cầu
- Việc quản lý cổ phiếu, cổ đông… đã có một chương trình phần mềm riêng. Kế toán chỉ theo dõi doanh thu lưu ký chứng khoán, tiền nhận và đã chi trả hộ cổ tức.
- Các khoản phí thu được:
o Phí thiết lập hồ sơ ban đầu (1)
o Phí chuyển nhượng cổ phần (2): Là phí Cty CK thu từ các cổ đông khi làm thủ tục cho các giao dịch chuyển nhượng cổ phiếu đang lưu ký tại CKĐA.
o Phí quản lý sổ cổ đông (3)
o Lãi tiền gửi liên quan chi trả cổ tức (4): Lãi của tiền cổ tức mà CKĐA nhận để trả hộ nhưng cổ đông chưa nhận hết đang còn nằm trong tài khoản Cty CK
Mỗi cuối tháng sẽ xuất hóa đơn cho (2) và (3). Riêng (1) sẽ xuất một lần khi ký HĐ và không xuất HĐ cho (4)
1.2 Quy trình
- Hằng ngày vẫn lập phiếu thu và hạch toán vào doanh thu. Đến cuối tháng phần mềm sẽ cho ra một bảng kê. Dựa vào bảng kê sẽ xuất hóa đơn cho từng tổ chức và xuất 01 hóa đơn cho các cá nhân.
- Phần mềm sẽ cho phép theo dõi những khoản đã/chưa xuất hóa đơn.
1.3 Chứng từ
- Hợp đồng lưu ký
- Chứng từ thu tiền
- Chứng từ thoả thuận thu chi hộ
1.4 Hạch toán
Nợ TK 111, 112
Có TK 5116(1-6): Phí thu từ dịch vụ lưu ký chứng khoán
Chi trả hộ cổ tức
Nợ TK 111, 112: Cổ tức nhận thanh toán hộ
Có TK 332
Nợ TK 332
Có TK 111, 112: Cổ tức thanh toán
Lý thuyết vị ân nhân
1. Cổ phiếu có PE bằng 10
2. Cổ phiếu có PE bằng 50
Trong 2 cổ phiếu trên theo bạn cổ phiếu nào có hiệu quả đầu tư tốt hơn? Nếu câu trả lời của bạn là cổ phiếu 1 thì bạn đã nhầm. Thông thường, đầu tư cổ phiếu là việc mua vào một cổ phiếu mà mình cho rằng giá đã rẻ rồi đợi giá tăng để bán ra. Tuy nhiên, nếu bạn mua một cổ phiếu mà giá đã cao mà lại có người chấp nhận mua vào cổ phiếu đó với mức giá cao hơn thì bạn đã thành công rồi. Cho dù bạn mua cổ phiếu có PE bằng 10 mà không có người nào chấp nhận mua lại cho bạn với giá cao hơn thì về lý thuyết là đúng nhưng thực tế thì bạn đã thất bại.
Đầu tư thì không ai mong muốn thua lỗ mà bất kỳ ai cũng đều kỳ vọng lợi nhuận. Vì vậy một cổ phiếu giá cao mà vẫn tăng giá(mang lại lợi nhuận) lại là một cổ phiếu tốt hơn so với một cổ phiếu rẻ mà không tăng giá. Tóm lại, nếu có một vị ân nhân nào đó chấp nhận mua lại cổ phiếu của bạn với giá cao hơn là OK. Việc đầu tư dựa trên cơ sở kỳ vọng có người mua lại cổ phiếu của mình với giá cao hơn gọi là “lý thuyết vị ân nhân”.
Tuy nhiên, lý thuyết này đã gây ra không ít bong bóng trên thị trường. Bởi vì ai cũng nghĩ rằng mình không phải là vị ân nhân cuối cùng. Trong lịch sử đã chứng kiến những vụ bong bóng như bong bóng hoa tulip ở Hà lan, bong bóng bất động sản ở Nhật, bong bóng IT ở Mỹ,...và tất cả những bong bóng này đều là kết quả của “lý thuyết vị ân nhân”.
1. Cổ phiếu có PE bằng 10
2. Cổ phiếu có PE bằng 50
Trong 2 cổ phiếu trên theo bạn cổ phiếu nào có hiệu quả đầu tư tốt hơn? Nếu câu trả lời của bạn là cổ phiếu 1 thì bạn đã nhầm. Thông thường, đầu tư cổ phiếu là việc mua vào một cổ phiếu mà mình cho rằng giá đã rẻ rồi đợi giá tăng để bán ra. Tuy nhiên, nếu bạn mua một cổ phiếu mà giá đã cao mà lại có người chấp nhận mua vào cổ phiếu đó với mức giá cao hơn thì bạn đã thành công rồi. Cho dù bạn mua cổ phiếu có PE bằng 10 mà không có người nào chấp nhận mua lại cho bạn với giá cao hơn thì về lý thuyết là đúng nhưng thực tế thì bạn đã thất bại.
Đầu tư thì không ai mong muốn thua lỗ mà bất kỳ ai cũng đều kỳ vọng lợi nhuận. Vì vậy một cổ phiếu giá cao mà vẫn tăng giá(mang lại lợi nhuận) lại là một cổ phiếu tốt hơn so với một cổ phiếu rẻ mà không tăng giá. Tóm lại, nếu có một vị ân nhân nào đó chấp nhận mua lại cổ phiếu của bạn với giá cao hơn là OK. Việc đầu tư dựa trên cơ sở kỳ vọng có người mua lại cổ phiếu của mình với giá cao hơn gọi là “lý thuyết vị ân nhân”.
Tuy nhiên, lý thuyết này đã gây ra không ít bong bóng trên thị trường. Bởi vì ai cũng nghĩ rằng mình không phải là vị ân nhân cuối cùng. Trong lịch sử đã chứng kiến những vụ bong bóng như bong bóng hoa tulip ở Hà lan, bong bóng bất động sản ở Nhật, bong bóng IT ở Mỹ,...và tất cả những bong bóng này đều là kết quả của “lý thuyết vị ân nhân”.
Cách dùng từ của báo chí và tâm lý nhà đầu tư
Câu chữ cùng có những điểm đáng sợ của nó. Cùng một mục đích là truyền tải một sự thật khách quan nhưng cách dùng từ ngữ khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới tâm lý nhà đầu tư. Ví dụ, cùng một bài báo về kết quả kinh doanh của công ty A nhưng có 3 cách dùng từ trong tiêu đề. Cách viết nào cũng đúng sự thực nhưng lại gây ra những hiệu quả tâm lý khác nhau
Cách viết 1
Công ty A : kết quả kinh doanh khả quan, lợi nhuận kỳ này tăng 20%, lợi nhuận cao nhất từ trước tới nay.
Cách viết 2
Công ty A : lợi nhuận kỳ này cao nhất từ trước tới nay nhưng tỷ lệ tăng trưởng giảm.
Cách viết 3
Công ty A : tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận giảm, còn nhiều yếu tố chưa rõ ràng trong quý tới
Với cách viết 1, những từ ngữ ấn tượng như “khả quan”, “tăng 20”, “cao nhất” tạo tâm lý hưng phấn cho nhiều nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu này.
Với cách viết 2, mặc dù đã sử dụng từ “cao nhất” nhưng sau đó lại là từ “giảm”. Nhà đầu tư sẽ có tâm lý tạm thời ko mua bán hoặc xem xét bán bớt đi một ít.
Với cách viết 3, những từ ngữ thiếu lạc quan như “giảm”, “chưa rõ ràng” sẽ tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư. Mọi người sẽ nghĩ đến chuyện bán đi chứ không mua vào.
Lại một ví dụ khác với 3 cách dùng từ khác nhau về một vấn đề
Cách viết 1
Công ty B : lỗ, 3 kỳ liên tiếp lợi nhuận âm.
Đọc tiêu đề này chắc không có nhà đầu tư nào nghĩ đến chuyện mua cổ phiếu B
Cách viết 2
Công ty B : tiếp tục lỗ nhưng tỷ lệ có chiều hướng giảm
Đọc tiêu đề này thì ấn tượng vẫn là xấu nhưng sẽ có người đưa cổ phiếu này vào tầm ngắm để nghiên cứu.
Cách viết 3
Công ty B : tỷ lệ lỗ giảm xuống, kỳ sau có khả năng có lãi
Tiêu đề này hoàn toàn không gây ra ấn tượng xấu, ngược lại sẽ có nhiều người xem xét mua cổ phiếu B.
Câu chữ cùng có những điểm đáng sợ của nó. Cùng một mục đích là truyền tải một sự thật khách quan nhưng cách dùng từ ngữ khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới tâm lý nhà đầu tư. Ví dụ, cùng một bài báo về kết quả kinh doanh của công ty A nhưng có 3 cách dùng từ trong tiêu đề. Cách viết nào cũng đúng sự thực nhưng lại gây ra những hiệu quả tâm lý khác nhau
Cách viết 1
Công ty A : kết quả kinh doanh khả quan, lợi nhuận kỳ này tăng 20%, lợi nhuận cao nhất từ trước tới nay.
Cách viết 2
Công ty A : lợi nhuận kỳ này cao nhất từ trước tới nay nhưng tỷ lệ tăng trưởng giảm.
Cách viết 3
Công ty A : tỷ lệ tăng trưởng lợi nhuận giảm, còn nhiều yếu tố chưa rõ ràng trong quý tới
Với cách viết 1, những từ ngữ ấn tượng như “khả quan”, “tăng 20”, “cao nhất” tạo tâm lý hưng phấn cho nhiều nhà đầu tư muốn mua cổ phiếu này.
Với cách viết 2, mặc dù đã sử dụng từ “cao nhất” nhưng sau đó lại là từ “giảm”. Nhà đầu tư sẽ có tâm lý tạm thời ko mua bán hoặc xem xét bán bớt đi một ít.
Với cách viết 3, những từ ngữ thiếu lạc quan như “giảm”, “chưa rõ ràng” sẽ tác động xấu tới tâm lý nhà đầu tư. Mọi người sẽ nghĩ đến chuyện bán đi chứ không mua vào.
Lại một ví dụ khác với 3 cách dùng từ khác nhau về một vấn đề
Cách viết 1
Công ty B : lỗ, 3 kỳ liên tiếp lợi nhuận âm.
Đọc tiêu đề này chắc không có nhà đầu tư nào nghĩ đến chuyện mua cổ phiếu B
Cách viết 2
Công ty B : tiếp tục lỗ nhưng tỷ lệ có chiều hướng giảm
Đọc tiêu đề này thì ấn tượng vẫn là xấu nhưng sẽ có người đưa cổ phiếu này vào tầm ngắm để nghiên cứu.
Cách viết 3
Công ty B : tỷ lệ lỗ giảm xuống, kỳ sau có khả năng có lãi
Tiêu đề này hoàn toàn không gây ra ấn tượng xấu, ngược lại sẽ có nhiều người xem xét mua cổ phiếu B.
Tâm lý phiến diện
Con người khi đánh giá một sự việc gì thì thường không đánh giá một cách tổng hợp dựa vào toàn bộ thông tin liên quan mà chỉ chú trọng vào một vài yếu tố lộ ra bên ngoài. Ví dụ khi ta gặp một người lần đầu tiên và có ấn tượng không mấy tốt về người đó thì chỉ duy nhất ấn tượng này đọng lại trong đầu. Sau đó, ấn tượng này ngày một lớn và cho dù con người đó có nhiều điểm tốt khác thì đánh giá của ta về con người đó cũng không thay đổi.
Trong đầu tư chứng khoán, câu chuyện cũng tương tự như vậy. Nếu có một mã cổ phiếu nào đó bạn muốn mua thì thông thường bạn sẽ phân tích cổ phiếu đó, liệt kê những điểm mạnh, điểm yếu, tin tốt và tin xấu. Tuy nhiên, do ngay từ ban đầu bạn đã có ý “muốn mua cổ phiếu này” cho nên càng phân tích, càng suy nghĩ thì chỉ có những điểm mạnh, tin tốt đọng lại trong đầu còn những điểm xấu khác thì bị xóa dần đi. Kết cục sẽ đưa bạn tới những hành động thiếu chính xác.
Con người khi đánh giá một sự việc gì thì thường không đánh giá một cách tổng hợp dựa vào toàn bộ thông tin liên quan mà chỉ chú trọng vào một vài yếu tố lộ ra bên ngoài. Ví dụ khi ta gặp một người lần đầu tiên và có ấn tượng không mấy tốt về người đó thì chỉ duy nhất ấn tượng này đọng lại trong đầu. Sau đó, ấn tượng này ngày một lớn và cho dù con người đó có nhiều điểm tốt khác thì đánh giá của ta về con người đó cũng không thay đổi.
Trong đầu tư chứng khoán, câu chuyện cũng tương tự như vậy. Nếu có một mã cổ phiếu nào đó bạn muốn mua thì thông thường bạn sẽ phân tích cổ phiếu đó, liệt kê những điểm mạnh, điểm yếu, tin tốt và tin xấu. Tuy nhiên, do ngay từ ban đầu bạn đã có ý “muốn mua cổ phiếu này” cho nên càng phân tích, càng suy nghĩ thì chỉ có những điểm mạnh, tin tốt đọng lại trong đầu còn những điểm xấu khác thì bị xóa dần đi. Kết cục sẽ đưa bạn tới những hành động thiếu chính xác.
Tâm lý thích hợp hóa vị trí(position) của mình
Nếu ở trạng thái ôm tiền và chờ đợi cơ hội thì nhiều nhà đầu tư tỏ ra lạnh lùng và lý trí. Tuy nhiên nếu họ mua vào cổ phiếu(thay đổi position) thì tình hình sẽ thay đổi. Họ sẽ có xu hướng không thích nghe những thông tin, phân tích không có lợi với cổ phiếu mà mình đang nắm giữ và cố gắng tìm kiếm những thông tin lọt tai. Hiện tượng tâm lý này gọi là sự thiên vị(bias). Cũng có trường hợp sự thiên vị này xảy ra một cách vô thức.
Trong cuộc sống đời thường, khi muốn tâm sự với một ai đó về những khó khăn của mình, thì không kể có ý thức hay vô thức, nhiều khi chúng ta có xu hướng tìm những người có thể nói những điều lọt tai mình.
Trong đầu tư chứng khoán, việc tránh thừa nhận những quyết định sai lầm của bản thân là một biểu hiện của hiện tượng tâm lý thiên vị. Nếu cứ tiếp tục duy trì tâm lý này thì việc bạn chịu thất bại trong đầu tư là khó tránh khỏi.
Nếu ở trạng thái ôm tiền và chờ đợi cơ hội thì nhiều nhà đầu tư tỏ ra lạnh lùng và lý trí. Tuy nhiên nếu họ mua vào cổ phiếu(thay đổi position) thì tình hình sẽ thay đổi. Họ sẽ có xu hướng không thích nghe những thông tin, phân tích không có lợi với cổ phiếu mà mình đang nắm giữ và cố gắng tìm kiếm những thông tin lọt tai. Hiện tượng tâm lý này gọi là sự thiên vị(bias). Cũng có trường hợp sự thiên vị này xảy ra một cách vô thức.
Trong cuộc sống đời thường, khi muốn tâm sự với một ai đó về những khó khăn của mình, thì không kể có ý thức hay vô thức, nhiều khi chúng ta có xu hướng tìm những người có thể nói những điều lọt tai mình.
Trong đầu tư chứng khoán, việc tránh thừa nhận những quyết định sai lầm của bản thân là một biểu hiện của hiện tượng tâm lý thiên vị. Nếu cứ tiếp tục duy trì tâm lý này thì việc bạn chịu thất bại trong đầu tư là khó tránh khỏi.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
